Viện trợ quân sự Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam

Hầu như toàn bộ vũ khí, khí tài quân sự, quân trang, quân dụng dùng cho chiến tranh Việt Nam của cả hai bên đều do bên ngoài viện trợ.

Chủng loại     Việt Nam Cộng hòa (số lượng còn lại đến 1975, chưa tính số bị phá hủy trước đó)[22]
từ Hoa Kỳ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[23]
từ Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (tổng cộng cả giai đoạn 1960-1975)
Súng bộ binh1.900.0003.608.863
Máy bay phản lực1.200458[24]
Trực thăng600Không có số liệu, chừng vài chục
Xe tăng-Thiết giáp2.0742.210 (gồm 1.249 xe tăng và 961 xe thiết giáp)[24]
Tên lửa phòng khôngKhông rõ95 hệ thống SA-2
Súng cối14.900Chừng vài ngàn
Súng phóng lựu chống bộ binh47.000Không được trang bị
Pháo các loại1.532 (chỉ tính đại bác cỡ 105mm trở lên, chưa tính pháo cỡ nhỏ và pháo cao xạ)6.271 (2.428 pháo mặt đất và 3.843 pháo cao xạ)
Xe cơ giới các loại56.00016.116
Máy thông tin50.000 (vô tuyến)
70.000 (hữu tuyến)
Không có số liệu
Bệ phóng rốc kétKhông có trang bị1.357
Tàu chiếnKhoảng 700Không có số liệu, chừng vài chục
Tổng giá trị viện trợ (1955-1975)~16,76 tỷ USD[25]~3,5 tỷ USD[4]

Việt Nam Cộng hòa

Viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa (tính riêng từ năm 1973 tới 1975)[26]:

Giai đoạnTrị giá (triệu đô la)
Tài khóa 1972-19731.614
Tài khóa 1973-19741.026
Tài khóa 1974-1975700

Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện trợ cho VNCH từ 1954 đến 1975 là trên 26 tỷ USD, trong đó có 16 tỷ USD viện trợ quân sự, 6 tỷ viện trợ khoa học-kỹ thuật, 1,6 tỷ viện trợ nông phẩm, 2,4 tỷ dưới hình thức đổi tiền.[27] Từ khi Mỹ rút lui thì viện trợ cũng giảm, từ 1.614 triệu USD năm 1972-1973 xuống 1.026 triệu USD năm 1973-1974 và 701 triệu USD năm 1974-1975 nên dù quân số tăng từ 700.000 lên hơn 1 triệu, quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn không mạnh lên là bao.[28]. Ngoài viện trợ chính thức còn phải kể đến chi tiêu tại chỗ của lính Mỹ, hàng năm đã đổ thêm cả tỷ USD vào miền Nam Việt Nam (trung bình mỗi lính Mỹ được trả 800 USD/tháng), gấp 2-3 lần tổng GDP của cả tám triệu dân do VNCH kiểm soát.

Tài khóa 1975 là năm Hoa Kỳ viện trợ quân sự ít nhất cho Việt Nam Cộng hòa, số viện trợ là 700 triệu USD. Tuy nhiên, số tiền này vẫn cao gấp hai lần lượng viện trợ mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận được từ Trung Quốc và Liên Xô cộng lại. CIA ước tính con số 1,7 tỉ USD viện trợ quân sự Mỹ trong năm 1974 là gấp bốn lần lượng viện trợ mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận được từ Liên Xô và Trung Quốc trong cùng năm đó[29].

Theo nguồn của Hoa Kỳ thì tổng viện trợ Quân sự cho VNCH từ 1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD, trong đó niên khóa 1972-1973 nhận được cao nhất là 3,349 tỉ USD[25] Lượng viện trợ quân sự mà Mỹ dành cho Việt Nam Cộng hòa cao gấp gần 5 lần so với lượng viện trợ mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận được từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước khối xã hội chủ nghĩa khác (~3,5 tỷ USD).

Tính tới năm 1973, khi quân Mĩ rút quân đã viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa một khối lượng khổng lồ vũ khí gồm hơn 1 triệu súng bộ binh, 46.000 xe tăng-xe thiết giáp và xe vận tải, hơn 1.500 máy bay chiến đấu các loại.[cần dẫn nguồn]

Ttổng cộng Mỹ đã viện trợ 2.750 máy bay và trực thăng các loại của Không lực VNCH. Chỉ có 308 chiếc sống sót qua chiến tranh (240 chiếc bay thoát sang Thái Lan hoặc ra tàu sân bay Mỹ, 68 chiếc được gửi về Mỹ[30]), hơn 2.440 chiếc còn lại đã bị bắn rơi, phá hủy hoặc bị tịch thu. Trong số đó, 877 chiếc máy bay và trực thăng đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tịch thu vào năm 1975[31]

Đầu năm 1973, dự trữ đạn của Việt Nam Cộng hòa đạt mức 165.000 tấn. Sự viện trợ rất lớn, cùng với việc Mỹ đã để lại căn cứ, trang bị, vũ khí... đã giúp quân lực Việt Nam Cộng hòa tăng cường đáng kể lực lượng (Lục quân, không quân đứng hạng 4 thế giới, hải quân đứng hạng 9 về quy mô). Trong chiến dịch mùa xuân năm 1975, CIA ước tính quân Giải phóng đã thu được khoảng 130.000 tấn đạn dược trong các kho của Việt Nam Cộng hòa, gấp nhiều lần so với dự trữ đạn dược mà quân Giải phóng chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh (khoảng 25.000 tấn). Có tướng Mỹ từng nói: "Chúng ta mà viện trợ quân sự nhiều cỡ này cho Bắc Việt Nam, thì họ có thể đánh nhau với chúng ta đến hết thế kỷ."[32]

Lưu ý số vũ khí và viện trợ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chiến phí của Mỹ ở Việt Nam[33]. Nó chưa bao gồm số vũ khí và chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng trong giai đoạn tham chiến trực tiếp 1964-1973, mà theo thống kê là trên 111 tỷ USD chi phí trực tiếp, tương đương 686 tỷ USD theo thời giá 2008[34]. Mặt khác, nếu tính cả chi phí trong giai đoạn 1954-1963, nhà kinh tế Steven ước tính tổng chi tiêu cuối cùng của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ cho thế chiến thứ hai[34][35]. Một tính toán mới hơn cho thấy Chính phủ Mỹ đã phải tiêu tốn 950 tỷ USD (thời giá 2011) chiến phí tại Việt Nam, nếu tính cả chi phí cho cựu chiến binh thì nước Mỹ đã tốn kém tới 1.200-1.800 tỷ USD cho cuộc chiến tại Việt Nam[36]

Chi phí của Mỹ cho chiến tranh ở Việt Nam (1953–1974). Một số ước tính có thể còn cao hơn[37]
Chi phí quân sự trực tiếpViện trợ quân sự cho VNCHViện trợ kinh tế cho VNCH
(chưa kể viện trợ qua đổi tiền)
Tổng chi phíQuy đổi theo thời giá năm 2015
111 tỷ đôla16,138 tỷ đôla7,315 tỷ đôla134,53 tỷ đôla1.020 tỷ đôla

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Tiền mặt

Cho đến nay vẫn chưa có số liệu chính thức công bố số tiền mặt viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ phía nhà nước Việt Nam, nhưng theo Nguyễn Nhật Hồng Trưởng bộ phận B29:[38]

"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam đánh Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn)(678.700.000 USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc tế ủng hộ, gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải phóng...".

Hàng hóa

Qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).[4] Ngoài một số như máy bay, tên lửa chỉ dùng ở miền bắc còn lại đều chuyển vào miền Nam qua đường Trường Sơn.

Trong 4 năm (1961-1964), Việt Nam nhận 70.295 tấn hàng quân sự, trong đó hàng của Liên Xô là 47.223 tấn. Liên Xô viện trợ 12 tàu phóng ngư lôi cỡ nhỏ và 4 tàu chống ngầm cỡ nhỏ vào năm 1961. Từ năm 1962 đến đầu năm 1965, Liên Xô đã viện trợ số lượng vũ khí, phương tiện, trang bị trị giá khoảng 200 triệu đô la Mỹ. Về huấn luyện, tính đến tháng 4-1964, đã có 1.450 cán bộ quân sự Việt Nam được gửi sang học ở 31 trường quân sự của Liên Xô (91 cán bộ cấp tá, 546 cấp úy, 135 người học ngành chính trị, 354 người học ngành kỹ thuật và các ngành khác, 48 người học ngành y), trong khi đã có 44 chuyên gia quân sự Liên Xô (có 2 người cấp tướng) sang Việt Nam công tác[39]

Giai đoạn 1965-1971, theo số liệu của các nhà nghiên cứu Liên bang Nga, tổng giá trị viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam là 1 tỷ 579 triệu USD, tức mỗi năm viện trợ trung bình đạt 220 triệu USD. Năm 1965, giá trị viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam là 210 triệu đô la Mỹ, chiếm 60% tổng viện trợ của các nước cho Việt Nam[39] Tổng trị giá viện trợ quân sự tính riêng trong 2 năm từ tháng 1-1966 đến tháng 12-1967 là 500 triệu rúp (xấp xỉ 550,5 triệu USD). Năm 1967, theo Báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Liên Xô (12-1967), đây là năm Liên Xô cung cấp viện trợ cao nhất cho Việt Nam với 416 triệu rúp (khoảng 430 triệu USD). Báo cáo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam cho thấy "Liên Xô viện trợ nhiều nhất vào hai năm 1965 - 1967, có nhiều loại vũ khí tương đối hiện đại, nhưng phần lớn đã qua sử dụng, trừ MiG-21, ĐKZ-B, cao xạ 23 ly, xe kéo pháo bánh xích, ô tô"[40] Năm 1968, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam 357 triệu rúp (tương đương 369,7 triệu đô la), chiếm 2/3 tổng toàn bộ viện trợ của các nước cho Việt Nam. Tính chung trong 4 năm 1965-1968, khối lượng Liên Xô viện trợ là 226.969 tấn[39]

Đầu năm 1965, Bộ Quốc phòng Việt Nam đề nghị Liên Xô viện trợ: 200 khẩu súng máy cao xạ 14,5 ly; 48 khẩu pháo cao xạ 100mm; 24 khẩu pháo mặt đất 130mm; 50 xe tăng T-54, 31 xe tăng lội nước PT-76; 152 khẩu pháo cao xạ 57mm; 20 máy bay MiG-17; 8 máy bay IL-28, 12 máy bay An-2, 6 tàu phóng ngư lôi cỡ nhỏ, 4 tàu vớt mìn, 680 máy vô tuyến điện... Phía Liên Xô cơ bản nhất trí và đã nhanh chóng chuyển hàng. Liên Xô còn đề nghị gửi một số đơn vị sang Việt Nam trực tiếp chiến đấu với Mỹ, bao gồm: một lữ đoàn tên lửa phòng không, hai trung đoàn pháo phòng không và các đơn vị kỹ thuật bảo đảm, một đơn vị máy bay MiG-21, một tiểu đoàn địa hình, một tiểu đoàn trinh sát kỹ thuật. Các đơn vị trên khi sang Việt Nam sẽ do phía Việt Nam giao nhiệm vụ chiến đấu, mọi chi phí sẽ do Liên Xô đảm bảo, phía Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ an ninh, thời gian sang Việt Nam chiến đấu là một năm. Tuy nhiên, phía Việt Nam đã từ chối đề nghị do muốn tự lực chiến đấu, không muốn cầu viện quân đội nước khác[39].

Các năm 1970-1971, viện trợ quân sự của Liên Xô giảm: năm 1970, giá trị viện trợ là 240 triệu rúp; năm 1971 là 89 triệu rúp. Đến giữa năm 1971, Bộ Quốc phòng Việt Nam đề nghị một danh mục viện trợ vũ khí trị giá khoảng 300 triệu rúp cho năm 1972, Liên Xô chỉ chấp thuận giá trị viện trợ khoảng 150 triệu rúp. Tính chung giai đoạn 1969-1972, tổng viện trợ của Liên Xô dành cho Việt Nam là 143.793 tấn[39]

Theo số liệu thống kê của Liên Xô, từ ngày 11-7-1965 đến ngày 31-12-1974, số quân nhân Liên Xô từng sang Việt Nam để giúp quân đội Việt Nam huấn luyện sử dụng vũ khí, xây dựng công trình... là 6.359 tướng lĩnh, sĩ quan và hơn 4.500 hạ sĩ quan, binh sĩ. Đến hết năm 1975, Liên Xô đào tạo cho 13.500 quân nhân Việt Nam trong các trường quân sự của Liên Xô[39]

Viện trợ của khối Xã hội chủ nghĩa cho VNDCCH
(ước tính của Hoa Kỳ)
[3]
NămViện trợ quân sự
(triệu USD)
1970205
1971315
1972750
1973330
1974400
Tổng cộng 1970-742.000

Giai đoạn 1970-1974, tài liệu của CIA giải mật của Hoa Kỳ thì đưa ra những con số ước tính trong biểu đồ, theo đó giai đoạn này VNDCCH nhận được khoản 2 tỷ USD viện trợ. Còn theo thống kê của VNDCCH thì giá trị viện trợ quân sự thực tế của họ sau 1973 thấp hơn nhiều so với ước tính của Mỹ, bởi Trung Quốc đã dừng cấp viện trợ (theo thỏa thuận trong Thông cáo Thượng Hải với Mỹ). Trong 2 năm 1973-1974, tổng cộng VNDCCH nhận được 114.532 tấn viện trợ quân sự, trị giá 339.355.353 rúp (~330 triệu USD), chỉ bằng 19% so với 2 năm 1971-1972[41]

Có những lúc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối nhận viện trợ nếu khoản viện trợ đó đi kèm những điều kiện mà họ không chấp nhận. Khi Trung Quốc đề nghị viện trợ 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện lái xe là người Trung Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn không đồng ý nhận bất cứ một chiếc xe nào vì tin rằng Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ (Trung Quốc từng mượn đường vào đánh Chiêm Thành thời nhà Trần, rồi từng lấy cớ vào giúp Lê Chiêu Thống để kéo quân vào Hà Nội). Có người trong Bộ Chính trị đề nghị "sao không nhận một vài chiếc cho người ta vui?", nhưng ông trả lời: "Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này"[42]

Để tăng cường năng lực hậu cần của mình, ngay từ năm 1957 VNDCCH đã tự tổ chức sản xuất vũ khí và phương tiện để giảm bớt phụ thuộc vào viện trợ. Trong 3 năm 1973 đến 1975, VNDCCH đã tự sản xuất được 3.409 tấn vũ khí đạn dược, 1.863 tấn phụ tùng xe, máy và 26.074 tấn quân trang, quân dụng khác.[43]

Khối lượng hàng quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa (bao gồm Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary, Bulgaria, România, CHDC Đức, CHDCND Triều TiênCuba) viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1955 đến 1975, qua từng giai đoạn như sau[23]:

Giai đoạnTổng số
(tấn)
Hàng hậu cần
(tấn)
Vũ khí, trang bị kỹ thuật
(tấn)
Liên Xô
(tấn)
Trung Quốc
(tấn)
Các nước khác
(tấn)
Giai đoạn 1955-196049.5854.10545.48029.99619.589 
Giai đoạn 1960-196470.29523070.06547.22322.982442
Giai đoạn 1965-1968517.393105.614411.779226.969170.798119.626
Giai đoạn 1969-19721.000.796316.130684.666143.793761.00196.002
Giai đoạn 1973-1975724.51275.26749.24665.601620.35438.557

Tính theo số lượng[24]

Phân loạiĐơn vị tínhLiên XôTrung QuốcCác nước XHCN khác
Súng bộ binhkhẩu439.1982.227.677942.988
Súng chống tăngkhẩu5.63043.58416.412
Súng cối các loạikhẩu1.07624.1342.759
Pháo hỏa tiễnkhẩu1.877290 
Pháo mặt đấtkhẩu7891.376263
Pháo cao xạkhẩu 3.229614
Bộ điều khiểnbộ647  
Bệ phóng rốc kétchiếc1.357  
Đạn rốc kétquả10.169  
Tên lửa SA-2hệ thống65[44]  
Đạn tên lửa VT 50vquả8.686  
Tên lửa Hồng Kỳe 1 trung đoàn 
Tên lửa S125e2 trung đoàn  
Đạn tên lửa K681quả480480 
Máy bay chiến đấuchiếc316142 
Tàu chiến hải quânchiếc5230 
Tàu vận tải hải quânchiếc21127 
Xe tăng các loạichiếc68755210
Xe vỏ thépchiếc601360 
Xe xích kéo pháochiếc1.332322758
Xe chuyên dùngchiếc4986.5242.502
Phao cầubộ121513
Xe máy công trìnhchiếc1003.430650
Ống dẫn dầubộ561145
Thiết bị toàn bộbộ37363

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam http://www.allacademic.com/meta/p_mla_apa_research... http://www.cbsnews.com/2100-201_162-4296368.html http://news.donga.com/3/all/20080702/8597259/1 http://www.esuhistoryprof.com/vietnam-war.html http://www.truthdig.com/report/page3/hillary_clint... http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-45949919.htm... http://thevietnamwar.info/how-much-vietnam-war-cos... http://www.theasa.net http://en.asaninst.org/contents/issue-brief-no-53-... http://www.globalsecurity.org/military/world/vietn...